Đức Quan Thế âm Bồ Tát, khi chưa xuất gia tu
hành, có một kiếp Ngài làm con đầu lòng của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến
Thái Tử.
Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ, thì
có Phật Bảo Tạng ra đời.
Vua thấy nhơn tâm xu hướng theo lời giáo hóa của
Phật càng ngày càng đông, bèn suy nghĩ rằng: “Nếu Đạo Phật không phải chơn
chánh, thì đâu có lẻ người ta sùng bái khắp xứ như vậy!”
Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường
Phật và chúng Tăng trong ba tháng, và lại khuyên các vị vương tử và đại thần
cũng làm như vậy.
Khi ấy Bất Huyến Thái Tử vâng lời Phụ Vương, hết
lòng tin kính, sắm đủ các món ngon quý và đem những đồ trân trọng của mình mà
dưng cúng cho Phật và đại chúng trong ba tháng, không trễ nãi bữa nào và cũng
không món gì kém thiếu.
Quan Đại thần Bảo Hải, là phụ thân của Phật Bảo
Tạng, thấy vậy khuyên rằng: “Điện hạ đã sẳn lòng tu phước mà cúng Phật cúng
Tăng: vậy xin Điện hạ hãy đem công đức đó mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề,
chớ nên cầu sự phước báu trên cõi Trời Đao Lợi hay là cõi Trời Phạm Thiên làm
chi.
Bởi vì mấy cõi ấy, tuy là cảnh vật vui tốt,
nhơn dân vui sướng, căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo
đi tự tại, những đồ y thực sẵn có, các cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ
dụng đủ đều khoái lạc, không có sự khổ như cõi nhơn gian.
Cái phước báu trong các cõi đó tuy là mỹ mãn
như thế, nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất, chắc chắn gì đâu, chính là sự
vô thường, thật là tướng vô định, như cơn gió thổi mau không có thế lực gì cầm
lại đặng: hết vui thì xảy ra buồn, hết sướng thì trở lại khổ, dầu có sống lâu đến
mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo vào đường nọ ngõ
kia.
Nếu Điện hạ cứ cầu phước báu đó, chắc không
thoát khỏi ải sanh tử luân hồi: nếu đã không khỏi luân hồi, thì chưa chắc lúc
nào đặng tiêu diêu tự tại.
Chi bằng Điện hạ đem công đức đó mà cầu món
phước báu vô lậu, không hư không mất, đời đời kiếp kiếp vượt ra ngoài ba cõi bốn
dòng hưởng sự an vui vô cùng vô tận, và
hồi hướng về Đạo Bồ Đề mà cầu mau thành Phật quả, đặng cứu độ chúng sanh khỏi
sông mê biển khổ. Vậy phần tự lợi đã vuông tròn, mà đức lợi tha lại đầy đủ nữa.
Bất Huyến Thái Tử nghe ông Bảo Hải khuyên nói
như vậy, bèn đáp rằng: “Ta xem xét cả thảy chúng sanh trong đường địa ngục chịu
sự khổ cực: còn kẻ nhơn gian và người thiên thượng thì đủ điều cấu nhiễm, lắm
chuyện trần lao, không có chút nào đặng thanh tịnh, bởi đó mà tạo thành tội
nghiệp, nên mới thọ quả báo mà đọa vào ba đường dữ là: địa ngục, ngạ quỷ và súc
sanh”.
Bất Huyến Thái Tử đáp lại rồi tự nghĩ rằng: “Bởi
chúng sanh ở trong đời không gặp đặng những người hiền nhơn quân tử, khuyên việc
lánh dữ làm lành mà dìu dắt lên con đường giải thoát, chỉ gặp những kẻ tàn ác
tiểu nhơn cũ dụ nhau kết bạn bè, thường xúi dục những điều bất thiện, và lại
phá hư Chánh Pháp, khinh Pháp Đại Thừa, làm cho mất cả căn lành, thêm điều tà
kiến, vì vậy mới che lấp tâm tánh, không biết đạo đức là gì, nên phải chịu nổi
đày đọa”.
Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa
rằng: “ Nay tôi đối trước mặt Phật và đại chúng mà tỏ lời như vầy: Tôi nguyện
đem tất cả các món công đức tôi đã từng cúng dường Tam Bảo và các món công đức
tôi đã từng tu tập Pháp mầu mà hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Tôi nguyện trong khi tôi tu những điều công hạnh
Bồ Tát, làm những việc lợi ích cho chúng sanh, nếu tôi xem có kẻ mắc sự khốn khổ
hiểm nghèo ở trong hoàn cảnh ám muội, không biết cậy nhờ ai, không biết nương dựa
đâu, mà có xưng niệm danh hiệu tôi, tức thời tôi dùng phép Thiên nhỉ mà lóng
nghe và dùng phép Thiên nhãn mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn
việc gì, đặng tôi hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ và đặng vui . Nếu chẳng đặng
như lời thề đó thì tôi không thành Phật.
Thưa Đức Thế Tôn! Nay tôi vì hết thảy chúng
sanh mà phát lòng đại nguyện, tu học về Pháp xuất thế, lo làm các công hạnh tự
giác tự lợi, nguyện khi phụ vương tôi là Vô Tránh Niệm, trải hằng sa kiếp nhẫn
sau thành Phật, hiệu là A Di Đà Như Lai ở cõi An Lạc, Thế giới, hóa độ chúng
sanh xong rồi, chừng nhập Niết Bàn, Chánh Pháp truyền lại, thì tôi tu hạnh làm
việc Phật sự. Đến lúc Chánh Pháp gần diệt, hễ diệt bửa trước thì bửa sau tôi chứng
Đạo Bồ Đề.
Xin Đức Thế Tôn từ bi mà thọ ký cho tôi, và
tôi cũng hết lòng yêu cầu các Đức Phật hiện tại ở hằng sa thế giới trong mười
phương đều thọ ký cho tôi như vậy nữa?
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện ấy,
liền thọ ký Bất Huyến Thái Tử rằng: “ Ngươi xem xét chúng sanh trong cõi Thiên
Thượng Nhơn gian và trong ba đường dữ đều mắc những sự tội báo, mà sanh lòng đại
bi, muốn đoạn trừ mọi sự khổ cực, dứt bỏ những điều phiền não và làm cho cả thảy
đều đặng hưởng sự an vui.
Vì người có lòng soi xét những loài yêu cầu của
loài hữu tình trong thế gian mà cứu khổ như vậy, nên nay Ta đặt hiệu là: Quan
Thế Âm.
Trong khi ngươi tu hạnh Bồ Tát, thì giáo hóa cả
vô lượng chúng sanh cho thoát khỏi sự khổ não và làm đủ mọi việc Phật sự.
Sau khi A Di Đà Như Lai nhập Niết Bàn rồi, thì
cõi Cực Lạc lại đổi tên là: “Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”, y báo càng tốt
đẹp hơn trước đến bội phần.
Chừng đó, đương lúc ban đêm, độ trong giây
phút, có hiện ra đủ thức trang nghiêm, thì ngươi sẽ ngồi trên tòa Kim Cang ở dưới
cây Bồ Đề mà chứng ngôi Chánh Giác hiệu là: “Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh
Công Đức Sang Vương Như Lai”, phước tròn hạnh đủ, muôn sự vẻ vang, đạo Pháp cao
siêu, thần thông rộng lớn, rất tôn rất quý, không ai sánh bằng mà lại sống lâu
đến chín mươi sáu ức na do tha kiếp, rồi khi diệt độ thì Chánh Pháp còn truyền
bá lại đến sáu mươi ba ức kiếp nữa.
Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi,
liền vui mừng mà thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự thề nguyện của tôi quả đặng
hoàn mãn như lời Ngài nói đó, thiệt là hân hạnh biết bao! Nay tôi lạy Ngài xin
làm thế nào cho các Đức Phật hiện ở hằng sa thế giới cũng đều thọ ký cho tôi và
khiến cho cả thảy thế giới đều đồng thời vang ra những tiếng âm nhạc, và các kẻ
chúng sanh nghe tiếng ấy đều đặng thân tâm thanh tịnh mà xa lìa mọi sự dục vọng
trên đời”.
Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu
Lễ Phật, tức thì các Thế giới tự nhiên rung động vang rền, kêu ra những tiếng
hòa nhã, ai ai nghe đến cũng sanh lòng vui vẻ, là cho các điều dục vọng bổng
nhiên tiêu tan cả.
Khi ấy, thoạt nghe các Đức Phật ở mười phương
đồng thinh thọ ký cho Quan Thế Âm rằng: “Đương khi thời kiếp Thiện trụ, ở tại
cõi Tán Đề Lam thế giới, nhằm lúc Phật Bảo Tạng ra đời mà giáo hóa chúng sanh, có con của vua Vô
Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử phát tâm cúng dường Phật và Đại chúng
trong ba tháng: Do công đức đó, nên trải hằng sa kiếp sẽ thành Phật, hiệu là:
Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai, ở về thế giới Nhứt
Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”.
Bất Huyến Thái Tử khi đặng Chư Phật thọ ký rồi,
thì lòng rất vui mừng.
Đến khi mạng chung, thì Ngài thọ sanh ra các đời
khác, trải kiếp nọ qua kiếp kia, hằng giữ bổn nguyện, gắng công tu hành, cầu đạo
Bồ Đề, làm hạnh Bồ Tát, chăm lòng thi hành những sự lợi ích cho chúng sanh,
không có khi nào mà Ngài quên cái niệm đại
bi đại nguyện.
Hiện nay Quan Thế Âm đã chứng được bực Đẳng
Giác Bồ Tát, ở cõi Cực Lạc mà hầu hạ Đức Phật A Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng
sanh trong mười phương đem về cõi ấy.
Đến sau, Đức Phật A Di Đà nhập Niết Bàn rồi,
thì Ngài kế ngôi Phật vị mà giáo hóa chúng sanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét