Đức Địa Tạng là một vị đã chứng bực Đẳng Giác trải đến vô lượng A Tăng Kỳ
kiếp rồi.
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài
không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề
không chịu thành Phật.
Do cái bổn nguyện ấy, nên Ngài phân thân nhiều phen, đặng độ thoát hằng
hà sa số chúng sanh đương tội khổ, trải đã không biết bao nhiêu kiếp rồi, mà
Ngài cũng còn làm một vị Bồ Tát như vậy.
Còn như nói đến tiền thân của Ngài từ khi chưa chứng quả vị, có kiếp
Ngài làm con gái, có kiếp thì Ngài làm con trai, và cũng có kiếp Ngài làm vua nữa.
Nay y theo Kinh Địa Tạng của Phật Thích Ca nói tại cung Trời Đao Lợi rất
có chứng cớ rõ ràng, mà lược điển một sự tích, khi Ngài làm con gái dòng Bà La
Môn như dưới này.
Hồi đời quá khứ, tại kiếp Bất khả tư nghị A tăng kỳ, có Đức Phật Giác
Hoa Định Tự Tại Vương ra đời.
Sau Phật ấy nhập diệt rồi, đến thời kỳ Tượng Pháp thì Ngài Địa Tạng lúc ấy
chưa chứng vị Bồ Tát, sanh làm con gái dòng Bà La Môn.
Vì nàng có túc phước rất nhiều, nên hết thảy mỗi người trong hàng thân
thích đều tôn trọng cung kính, cho đến khi đi đứng nằm ngồi, cũng đều có hàng
Chư Thiên ủng hộ.
Ngặt vì thân mẫu của nàng tín theo ngoại đạo, nên thường đem lòng tà niệm
mà khinh khi Tam Bảo, đã không tin nhân quả nghiệp báo, mà lại còn chê bai
Chánh Pháp nữa.
Khi đó nàng đã biết mẹ mình không tin Phật pháp, thế nào đến khi thác rồi
cũng phải trầm luân nơi khổ ải, nên nàng mới hết lòng khuyên can, sớm tối kiếm
nhiều lời, phương tiện mà giảng nói, muốn làm sao cho mẹ mình tín ngưỡng theo
Chánh giáo, thì mới đành lòng.
Song khuyên thì khuyên, can thì can, mà thân mẫu của nàng ác nghiệp đã
dãy đầy và tín tâm lại cạn cợt, nên chẳng có chút gì tin theo.
Ôi chẳng bao lâu bà đã nhuốm bệnh trầm kha, bổng chốc hóa ra người thiên
cổ. Vì lúc sanh tiền ác nghiệp đã thành thục, nên chi thần hồn phải theo nghiệp
quả mà đọa lạc vào vô gián địa ngục.
Còn phần nàng, một nỗi thì thương mẹ cách biệt, dậm đất kêu trời, một nổi
thì sợ mẹ trầm luân, kinh hồn hãi vía, ngổn ngang trăm mối bên lòng, ăn không
ngon, nằm không ngủ, đêm ngày than khóc, ngàn thảm muôn sầu. Tưởng trong cảnh
huống ấy, nếu có phương gì mà cứu mẹ được, dầu thịt nát xương mòn nàng cũng
không hề tiếc, huống chi nói đến sự gì. Khi ấy nàng mới bán hết nhà cửa ruộng
vườn, rồi mua sắm đủ các thứ hương hoa và những đồ quí báu đem đến Chùa Phật mà
dâng cúng.
Lúc nàng vào Chùa lễ lạy, xem thấy hình tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai sơn vẻ trang hoàng, oai dung nghiêm chỉnh, dường như một vị Phật
sống thì trong lòng nàng lại bội phần kính ngưỡng.
Nàng lễ bái rồi tự nghĩ rằng: “Phật là bực Đại Giác, đủ trí sáng suốt và
hiểu thấu các lẽ, nếu được Phật còn tại thế, thì trong lúc mẹ ta chết rồi, thì
có phạm tội gì và sanh về đường nào, ắt nhờ Phật từ bi chỉ bảo cho ta biết đặng,
có đến nổi đâu mà thảm như thế này!”
Nàng nghĩ như vậy rồi, cứ đứng nhìn sửng tượng Phật mà khóc, không chịu
bước ra, dường có vẻ muốn tỏ lòng cầu khẩn với Phật mà mong Phật chỉ bảo chỗ thọ
khổ của mẹ mình và nhờ ơn cứu độ.
Vừa một chập lâu, thoạt nghe giữa thinh không có tiếng gọi rằng: “Nàng
Thánh Nữ kia! Thôi đừng buồn rầu khóc lóc nữa, để ta chỉ chỗ thác sanh của mẹ
ngươi cho ngươi biết”.
Nàng nghe nói như vậy, liền chấp tay ngữa mặt lên hư không mà bạch rằng:
“Từ khi mẹ tôi mất đến nay, ngày đêm thương nhớ, không biết hỏi han ai cho rõ
chỗ thác sanh của mẹ tôi, nay không biết đức Thánh thần chi mà có lòng đoái
thương đến tôi như vậy”.
Lúc nàng nói vừa rồi, giữa thanh không lại có tiếng trả lời rằng: “Ta
đây là Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi cúng dường lễ bái đó! Vì thấy
ngươi có lòng thương nhớ mẹ rất tha thiết, thiệt là chí hiếu hơn hạng chúng
sanh thường tình, nên ta đến đây mà chỉ bảo”.
Nàng nghe mấy lời Phật nói như thế, thì lòng thiết tha muốn biết rõ tin
của mẹ thác sanh về chỗ nào, nên không kể đến thân hình, liền gieo mình xuống đất,
tay chân bủn rủn, chết điếng một hồi.
May đâu có những người ở hai bên xúm lại đỡ dậy, nên nàng mới hồi tỉnh lại,
rồi bạch với giữa thanh không rằng ”Xin Phật đem lòng từ bi thương xót mà chỉ
dùm chỗ thác sanh của mẹ tôi cho mau, chứ tôi đây hình mòn tâm khổ chẳng bao
lâu phải chết”.
Khi ấy Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mới nói với nàng rằng:
“Ngươi cúng dường và lễ bái xong rồi, mau mau sớm trở về nhà, ngồi ngay thẳng
và yên lặng mà nghĩ danh hiệu của ta, tự nhiên biết được xứ sở của mẹ ngươi
thác sanh”. Nàng lễ Phật vừa xong, liền trở về nhà cứ y theo lời Phật dạy, nàng
ngồi yên lặng một chỗ, niệm danh hiệu của Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như
Lai một ngày một đêm. Thình lình nàng thần mộng đi đến một chỗ bờ biển kia, nước
cuồn cuộn sôi trào, ba đào sóng bủa, lại thấy nhiều giống ác thú, cả mình bằng
sắt, nhảy nhót bơi chạy trên mặt biển, không biết là bao nhiêu, lại thấy những
đàn ông và đàn bà, kể hơn trăm ngàn, lặn xuống trồi lên ở trên ấy, thảy đều bị
những thú dữ kia dành giựt bấu xé mà ăn thịt.
Còn quỉ Dạ Xoa thì hình thù khác nhau hoặc có thứ nhiều tay nhiều chân,
hoặc có thú nhiều con mắt nhiều đầu, hoặc có thứ nanh bén nhọn như gươm mọc ló
ra ngoài miệng, thảy đều áp lại lùa đuổi những bọn tội nhơn đến gần cho thú dữ
kia ăn thịt. Thiệt cái thảm trạng ấy không dám xem cho lâu!
Nhưng nàng nhờ có sức niệm Phật, nên tâm vẫn thanh tịnh, tự nhiên không
có chút cho sự sợ hãi cả. Xảy đâu có một quỷ vương, tên là Vô độc, thấy hình tướng
nàng chẳng phải người phàm, oai nghi không giống kẻ tục, bèn đến trước mặt nàng
cúi đầu nghinh tiếp mà bạch rằng: “Dám hỏi Đức Bồ Tát vì duyên cớ chi mà đi tới
đây?”
Nàng lại hỏi quỷ vương rằng: “Chỗ này kêu là xứ gì?
Quỷ vô độc đáp rằng: “Đây là biển nghiệp thứ nhất, về phía Tây núi Thiết
vi”.
Nàng nghe nói liền bảo rằng: “Ta nghe trong núi Thiết vi có địa ngục ở
chính giữa, việc ấy quả như vậy hay không?”
Quỷ Vô độc đáp rằng: “Thiệt có địa ngục, chớ không phải huyễn hoặc đâu!”
Nàng nghe rồi bèn khởi lòng kính nghi mà hỏi nữa rằng: “Địa ngục là nơi
để giam nhốt những người có tội, còn Ta đây có lòng kính ngôi Tam Bảo, mà duyên
cớ gì cũng đi đến chỗ ấy như vậy?”
Quỷ Vô độc đáp rằng: “Phàm người đi đến đây có hai cách: một là có oai đức
thần thông, đến cứu độ cho mấy người tội khổ, hay là đến chơi cho biết, hai là
mấy người tội ác đã thành thục, phải đi tới đây mà chịu khổ.
Nếu trừ hai lẽ ấy ra, thì không thể đến đây được”. Nàng lại hỏi nữa rằng:
“Nước biển này duyên cớ sao mà lại sôi trào lên hoài, còn ở trong thì có nhiều
tội nhân lặn lên hụp xuống, lại bị các loài thú dữ xâu xé ăn thịt như thế!”
Quỷ Vô độc đáp rằng: “Đây là chỗ nhốt những kẻ chúng sanh tạo ác ở cõi
Diêm phù đề, nên khi chết rồi, trãi qua 49 ngày, không ai kế tự, lo làm việc
công đức đặng cứu vớt vong linh bị khốn nạn. Còn những người đã chết đó, lúc
sanh tiền lại không có chút mảy gì là điều phước thiện, vì vậy nên cứ theo bổn
nghiệp của mình mà chiêu cảm lấy cái khổ báo ở nơi địa ngục tự nhiên trước hết
phải đọa tới đây.
Ở bên phía Đông biển này, cách chừng mười vạn do tuần lại có một cái biển
nữa, sự đày đọa của chúng sanh bị vào đó còn khổ hơn đây đến bội phần. Còn bên
mé Đông biển kia, lại có một cái biển khác, sự thảm trạng thống thiết không thể
kể xiết!
Những hạng người thọ khổ là do bình nhựt ở thế gian tạo những nghiệp ác
mà phải cảm lấy sự tội báo như vậy, nên ba cái biển đó đều gọi là: “biển nghiệp”.
Nàng lại hỏi quỷ Vô độc rằng: “Sao đây chỉ thấy có biển nghiệp mà thôi,
còn địa ngục lại ở chỗ nào đâu?”
Quỷ Vô độc đáp rằng: “Ở giữa ba cái biển ấy là chỗ địa ngục. Nếu kể số
riêng ra thì nhiều đến trăm ngàn mà sự thọ khổ đều mỗi mỗi khác nhau, như nói về
phần ngục lớn thì có 18 chỗ, còn nói về phần ngục trung thì có năm trăm chỗ và
lại có ngàn trăm chỗ ngục nhỏ nữa. Sự khổ độc trong mấy chỗ ngục đó không biết
bao nhiêu mà kể cho xiết đặng! ”Nàng lại hỏi quỷ vương rằng: “Mẹ ta khi chết đến
nay tuy chưa bao lâu mà chẳng biết thần hồn đã đi đến chỗ nào?”
Quỷ vương lại hỏi nàng rằng: “Chẳng hay mẹ của Bồ tát, lúc sanh tiền làm
những nghiệp gì, xin tỏ cho tôi rõ”.
Nàng đáp rằng: “Mẹ ta trước bị nhiễm theo tà kiến, chê bai ngôi Tam Bảo,
gửi lòng không thường, lập tánh không định, dẫu có nghe lời khuyên can mà tạm
tín, rồi cũng trở lại hủy báng nữa. Nay chết tuy chưa bao lâu, ắt có lẻ theo ác
nghiệp ấy mà đọa vào khổ thú, nên ta muốn tìm cho biết chỗ sanh xứ của mẹ ta,
nhưng không hiểu ở nơi nào?”
Quỷ vô độc hỏi rằng: “Vậy chờ mẹ của Bồ tát tên họ là chi?”
Nàng đáp rằng: “Cha tên là Thi La Thiện Hiện còn mẹ hiệu là Duyệt Đề Lợi,
đều là dòng dõi Bà La Môn cả”.
Quỷ Vô độc nghe rồi, lật đật chấp tay mà bạch với nàng rằng: “Xin Thánh
giả trở về bổn xứ, chẳng nên thương nhớ lịnh thân mẫu mà buồn rầu làm cho hao
mòn quý thể. Số là Duyệt Đề Lợi đã khỏi sự khổ ở chốn địa ngục này mà sanh lên
cõi Trời cách nay đã ba ngày rồi. Nguyên Bà nhờ có người con hết lòng thảo thuận,
lập đàn tràng tu phước và cúng dường nơi tháp tự của Đức Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như lai, nên mới cảm đến Phật Thánh mà được sanh về cõi Trời như vậy.
Chẳng những thân mẫu của Bồ Tát nhờ phước đó mà thoát khỏi chỗ Vô gián địa
ngục, đặng sanh lên cõi Trời mà thôi, cho đến những người đồng thọ tôi ở đó
cũng nhờ duyên phước ấy mà đều đặng an vui và đồng sanh về cõi Thiên đàng trong
ngày đó nữa?.
Quỷ vương nói rồi, liền chấp tay tỏ vẻ cung kính mà xin lui.
Còn nàng thì trong lúc ấy, dường
như chiêm bao tỉnh giấc, mới rõ biết việc này là nhờ Phật lực làm cho thân mình
được đi tới chỗ thác sanh của mẹ như vậy. Nên nàng cảm ơn Phật, lập tức đến trước
bổn tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà phát lời thệ nguyện lớn
rằng: “Nay tôi nguyện cho đến kiếp vị lai nếu có chúng sanh nào tạo tội mà chịu
khổ ở nơi Địa ngục, bất luận là kẻ thân thuộc hay người cừu oán, tôi lập ra nhiều
pháp môn phương tiện mà cứu độ cho đều được phân giải thoát tất cả”.
SỰ TÍCH ĐỨC ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
Hồi đời quá khứ vô lượng a tăng kỳ
kiếp, có Đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục ra đời.
Sau Phật nhập diệt rồi, đến thời kỳ tượng Pháp, thì Ngài Địa Tạng chưa
chứng vị Bồ Tát, sanh làm người con gái, tên là Quang Mục.
Khi mẹ nàng từ trần, thì nàng ngày đêm lo sợ, không biết mẹ có thoát khỏi
tội khổ hay không.
Có một bửa kia, nàng gặp một Thầy Tỳ khưu đương khất thực, mà Thầy ấy
chính là một vị La Hán đi giáo hóa chúng sanh. Nàng bèn sắm đủ các món đồ ăn
ngon quý, rồi mời vị La Hán ấy vào nhà mà cúng dường.
Khi Ngài thọ thực rồi, bèn hỏi rằng: “Ngươi muốn cầu nguyện việc chi hay
không?”
Nàng thưa rằng: “Bạch Ngài! Bởi vì ngày mẹ tôi mất đến nay, tôi buồn rầu
thương nhớ bội phần, nghĩ đến ơn nhũ bộ, đức sanh thành, thì ngàn kiếp muôn đời
tôi cũng không quên đặng, nên tôi nguyện làm việc tư phước này đặng cầu siêu
vong linh cho mẹ tôi nơi chín suối. Nhưng bổn phận tôi là người phàm mắt thịt,
không biết mẹ tôi thác sanh về chỗ nào?
Vậy xin Ngài từ bi chỉ bảo cho tôi biết”.
Vị La Hán thấy nàng Quang Mục tuổi nhỏ mà có lòng hiếu đạo như vậy, bèn
nhập định thấy mẹ nàng bị đọa vào chỗ ác thú mà chịu nhiều nổi thống khổ rất nặng
nề.
Khi Ngài xuất định rồi, liền hỏi nàng rằng: “Vậy chớ lúc còn sanh tiền ở
trên dương thế, mẹ ngươi làm những việc chi, đến nổi nay lại bị hiện báo ngay ở
chỗ ác thú mà chịu hình phạt lớn lao như thế ?”
Nàng nghe nói khôn xiết nổi buồn rầu, liền khóc òa một hồi rồi thưa rằng:
“Bạch Ngài! Số là bình nhựt sở hảo của mẹ tôi chỉ thích ăn loài cá trạch, mà lại
còn ưa ăn những trứng của nó, hoặc chiên xào, hoặc nấu nướng, không biết ngàn vạn
nào mà kể xiết. Thường cái nghiệp sát sanh của mẹ tôi đó cũng đã quá nặng, vậy
xin Ngài đem lòng từ bi thương xót đến kẻ thơ ấu này làm thế nào cứu vớt mẹ tôi
đặng thoát khỏi nơi khổ thú, thì ơn đức ấy vô lượng vô biên”.
Vị La Hán thấy tấm lòng chơn thiệt của nàng yêu cầu khẩn thiết như vậy,
liền dùng cơ phương tiện mà khuyên nhủ nàng rằng: “Ngươi nên chí thành xưng niệm
danh hiệu của Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục, và phát tâm đắp vẻ sơn thếp hình tượng
của Phật mà thờ, thì ngày sau nhờ cái công đức đó mà kẻ còn sống đặng thêm sự lợi
ích, và người mất rồi lại khỏi sự khốn nàn, hai đàng đều nhờ phần phước báu tất
cả”.
Khi nàng Quang Mục nghe lời của vị La Hán nói trên, nàng dẫu bỏ thân mạng
cũng không tiếc, huống chi là sự gì. Nên nàng liền bán hết thảy những đồ nữ
trang và có bao nhiêu tiền của cũng đem ra mướn thợ tạo tượng Phật Thanh Tịnh
Liên Hoa Mục và mua vàng sơn thếp mà cúng dường như tỏ dấu yêu cầu đến Phật, đặng
nhờ ơn cứu độ cho từ thân.
Có một đêm kia, ước chừng lúc canh ba, nàng vừa mơ màng giấc điệp, bỗng
thấy thân Phật hiện ra sắc vàng rực rỡ, lại có hào quang sáng chói mà tỏ cho
nàng biết rằng: “Mẹ ngươi chẳng bao lâu rồi cũng thác sanh vào nhà ngươi, hể vừa
biết sự đói lạnh thì nói liền, khi đó ngươi sẽ rõ”.
Nàng Quang Mục tỉnh giấc dậy, thì biết là điềm linh ứng của Phật mách bảo,
nhưng chưa hiểu cách thác sanh làm sao, nên luống những ưu sầu mà trông đợi.
Cách ít lâu, người tớ gái của nàng sanh được một đứa con, chưa đầy ba
ngày mà đã biết nói.
Có một bửa nọ, đứa nhỏ thấy nàng Quang Mục liền cúi đầu mà khóc lóc rất
thảm thiết, rồi nói rằng: “Đường sanh nẻo tử, mối nghiệp dây duyên, nếu đã tạo
tội thì tất phải chịu lấy quả báo, chớ không thể tránh được. Ta đây vốn thiệt
là mẹ ngươi khi trước. Từ lúc vĩnh biệt đến nay, ta bị đọa vào địa ngục, chịu nổi
đắng cay, may nhờ phước lực của ngươi, nên ta mới được đầu thai lên đây. Nhưng
vì tội báo còn nặng nên ta phải sanh làm thân hèn hạ như thế này. Đã vậy mà lại
không thọ, ta chỉ sống được mười ba tuổi mà thôi, rồi lại phải chết vì bị đọa
vào ác đạo nữa. Bây giờ ngươi nghĩ có cách gì làm cho ta ngày sau thoát khổ ấy
đặng hay không?
Nàng nghe nói đầu đuôi tự sự, hiệp với lời của Phật mách bảo trong điềm
chiêm bao, thì biết là thiệt mẹ của mình, nàng động mối thương tâm, tơ sầu vấn
vít, giọt lệ chứa chan, mà thưa với đứa nhỏ ấy rằng: “Nếu quả là mẹ tôi, thì chắc
biết đặng những sự tội lỗi trong lúc sanh tiền làm hạnh nghiệp gì mà phải đọa
vào ác đạo như vậy? Xin tỏ hết cho tôi làm tin”.
Đứa nhỏ bèn nói rằng: “Bởi ta ngày trước phạm vào hai nghiệp tội: một là
sát sanh và hai là hay mắng người, nên phải đọa vào địa ngục mà chịu nổi khổ
báo như vậy. Nếu không nhờ phước lực của người niệm Phật và đắp vẻ hình tượng của
Ngài mà thờ, đặng cầu cứu vớt cho ta, thì tưởng không phương gì mà ta mong phần
giải thoát cho đặng”.
Nàng lại hỏi nữa rằng: “Vậy chớ những sự tội báo ở nơi địa ngục ra thế
nào?”
Đứa nhỏ nói rằng: “Ôi sự thống khổ ấy không nở nói ra , mà đã nói thì
cũng không biết chừng nào cho hết chuyện”.
Nàng nghe mấy lời ấy liền khóc òa, rồi ngữa mặt lên hư không mà bạch rằng:
“Tôi nguyện với Chư Phật xin đem lòng đại bi mà cứu cho mẹ tôi đời đời khỏi đọa
vào địa ngục, và từ nay cho mẹ tôi khỏi phạm tội nặng mà sa vào đường ác đạo
khác nữa”.
Nàng bèn ra quỳ trước bàn thờ Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục mà nguyện rằng:
“ Nay tôi vái cùng mười phương Chư Phật, xin từ bi thương xót mà chứng minh cho
mấy lời thệ nguyện của tôi ở giữa này. Nếu mẹ tôi đời đời lìa khỏi ba đường dữ
cùng khỏi làm người hèn hạ, và đến kiếp nào kiếp nấy cũng khỏi đầu thai làm
thân con gái nữa, thì từ đó tôi đối trước tượng Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục
đây cho đến trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, hễ thế giới nào có chúng sanh bị các
tội khổ ở trong địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, thì tôi thệ nguyện ra sức cứu vớt
cả thảy khỏi sự thống khổ nơi ba đường ấy và chừng người nào người nấy đều đặng
thành Phật tất cả, tôi mới chịu chứng bực Chánh Giác”.Khi nàng phát thệ nguyện
vừa rồi, bỗng nghe giữa hư không có tiếng nói rằng: “Này Quang Mục! Ngươi có lòng
từ bi mẫn rất lớn, biết vì mẹ mà phát lời đại nguyện như thế, nay Ta là Thanh Tịnh
Liên Hoa Mục cho mẹ ngươi mãn đến khi 13 tuổi, được thác sanh làm người Phạm
Chí, hưởng thọ đến trăm tuổi, rồi sau lại được sanh về cõi Vô ưu, hết sự lo phiền,
đủ điều khoái lạc, lại sống lâu đến đời đời kiếp kiếp, và sau được thành Phật
quả mà cứu độ tất cả chúng sanh ở cõi Nhân gian và Thiên thượng, nhiều như số
cát sông Hằng”.
Nàng nghe đủ mọi điều tiên chúc của Phật tỏ bày, thì lấy làm vui mừng
khôn xiết, liền lễ lạy mà cảm ơn đức Ngài.
Từ đó về sau nàng nuôi dưỡng và săn sóc đứa con nít ấy kỹ càng và khi đến
13 tuổi nó chết, nàng thương xót và chôn cất một cách tử tế như mẹ vậy.
SỰ TÍCH ĐỨC ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
Trước đời quá khứ vô lượng A tăng tỳ na do tha bất khả thuyết kiếp, thì
Đức Nhứt Thuyết Thí Thành Tựu Như Lai và Ngài Địa Tạng Bồ Tát đều chưa xuất gia
tu hành. Hai người đồng làm vua lân bang với nhau trong một thời kỳ.
Khi ấy, hai vị quốc vương kết nghĩa làm bạn và giao hảo với nhau một
cách rất thân thiết, đều phát tâm làm mười điều lành, muốn trên thì quần thần
được hưởng cuộc sống hạnh phúc vô vi, dưới thì bá tánh được an cư lạc nghiệp,
và sau nữa tất cả chúng sanh đều gội ơn giáo hóa, cảm đức nhơn từ, mà bỏ dữ làm
lành, đặng mọi phần lợi ích.
Song nhân dân trong các nước lân bang, phần nhiều hay làm điều ác nghiệp,
như là tham lam, nóng giận, ngu si, tà kiến, nói thì ngoa ngôn ác ngữ, mắng rũa
lẫn nhau, không kính Phật trọng Tăng, chẳng trì giới sát, tật đố mấy người
lương thiện, mưu hại những kẻ trung thành, chẳng có chút gì là lòng nhơn đức cả.
Đã vậy mà hễ có xảy ra những tai bệnh gì, thì cứ rước bóng rước chàng,
vái ma vái quỷ, đem thân mạng mà cầu cứu với bọn tà sư ngoại đạo, sát hại vật
mà cúng tế luôn luôn, tạo tác không biết bao nhiêu là tội nghiệp. Hai vị quốc
vương thấy nhơn dân ở các nước lân bang cứ chuộng sự tà mỵ và làm việc chẳng
lành như vậy, động lòng thương xót, mới bàn luận cùng nhau tìm phương tiện gì,
đặng hóa độ cho những kẻ ấy khỏi bị cái ác nghiệp thọ báo, trầm luân nơi biển
khổ về sau.
Lúc bàn luận xong rồi, một vị phát nguyện rằng:
“Nay tôi nguyện xuất gia cầu đạo Bồ đề cho đặng mau thành Chánh Giác mà
hóa độ tất cả chúng sanh đều được vào cõi Niết Bàn, thì lòng tôi mới lấy làm thỏa
mãn”.
Còn một vị, thì phát nguyện rằng: “Nay tôi nguyện xuất gia tu hạnh Bồ
Tát, nếu tôi không độ những loài chúng sanh bị tội khổ được mọi điều an lạc và chứng quả Bồâ đề, thì tôi chưa chịu
thành Phật”.
Trong hai vị quốc vương đồng thời phát nguyện như đã nói trên, thì phát
nguyện sớm thành Phật mà hóa độ chúng sanh, tức là Ngài Nhứt Thiết Trí Thành Tựu
Như Lai. Còn vị phát nguyện độ hết chúng sanh rồi sau sẽ thành Phật, tức là
Ngài Địa Tạng Bồ Tát.
Vì lời thệ nguyện của Đức Địa Tạng như vậy, nên đã trãi vô số kiếp mà
Ngài cũng còn làm một vị Bồ Tát. Thiệt tấm lòng độ sanh của Ngài to lớn biết là
dường nào!
SỰ TÍCH ĐỨC ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
Hồi đời quá khứ, thuộc về kiếp bất khả thuyết, thì tiền thân của Đức Địa
Tạng Bồ Tát lại sanh làm ông Đại Trưởng giả, rất hào tộc và có đức độ.
Đương thời kỳ ấy, có Đức Phật, hiệu là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh
Như Lai ra đời.
Một bữa kia, ông Trưởng giả tình cờ gặp vị Phật ấy, thân tướng tốt đẹp,
ngàn phước trang nghiêm, thiệt là tuyệt thắng trên đời, xưa nay chưa thấy. Ông
càng xem lại càng thương và càng kính, làm cho ông sanh lòng hân hạnh bội phần.
Ông bèn lại gần, cúi đầu chấp tay mà thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Tôi trộm
thấy cái dung quang của Ngài rất đoan trang nghiêm nghị và viên mãn trăm phần,
càng ngó lại càng tươi, càng nhìn lại càng đẹp, thiệt là chẳng ai có cái báo
thân như thế! Nhưng tôi tự nghĩ rằng nếu được quả tốt, ắt có nhơn lành, vậy chẳng
rõ mấy kiếp trước, Ngài làm những hạnh nguyện gì mà ngày nay cảm được thân tướng
tốt đẹp như thế!
Xin Ngài từ bi giảng nói cho tôi biết, chứ tôi đây cũng lấy làm ước ao
sao cho được cái tướng hảo ấy”.
Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai thấy ông Trưởng giả có lòng ước sự
làm lành, nên Ngài liền bảo rằng: “Nếu người muốn được kim thân diệu tướng như
Ta đây, thì phải phát tâm tu hành, trải vô lượng kiếp cầu đạo bồ đề và một lòng
tinh tấn, mà hóa độ tất cả những loài chúng sanh thọ khổ cho thoát khỏi đường tội
báo và được phần khoái lạc tiêu diêu, do cái duyên phước ấy mà ngày sau sẽ cảm
đặng tướng hảo như Ta đây, chớ không khó gì”.
Ông Trưởng giả nghe Phật dạy bảo như vậy, liền quỳ xuống trước mặt Ngài
mà phát nguyện rằng: “Tôi nguyện từ nay cho đến đời vị lai, không biết bao
nhiêu kiếp số về sau, nếu có chúng sanh nào ở trong sáu đường, bị thống khổ về
sự tội báo, thì tôi dùng đủ phương tiện mà độ cho được giải thoát tất cả, chừng
đó tôi mới chứng Phật quả”.
Vì trong kiếp làm Trưởng giả nói trên, Đức Địa Tạng có phát lời đại nguyện
như vậy, nên từ đấy đến nay, trải đã trăm ngàn vạn ức na do tha, không biết bao
nhiêu kiếp số rồi, mà Ngài hãy còn làm một vị Bồ tát.
Xem đó thì biết cái thệ nguyện “lợi tha” của Ngài là vô cùng vô tận, và
cái công đức “cứu khổ” của Ngài thiệt là vô lượng vô biên.
SỰ TÍCH ĐỨC ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
Trong truyện Thần Tăng có nói rằng:
Sau khi Phật Thích Ca nhập diệt 1.508 năm, nhằm đời nhà Tấn, niên hiệu Vĩnh
Huy, năm thứ tư, thì Đức Địa Tạng Bồ Tát giáng sanh tại nhà vua nước Tân La.
Ngài tục tánh là Kim, tên là Kiều Giác.
Khi được 24 tuổi, Ngài xuất gia tu hành có dắt theo một con chó trắng,
kêu là con Thiện thinh ( Thiện thinh là con chó biết nghe tiếng người) qua Tỉnh
Giang Nam, huyện Thanh Dương, về phía Đông phủ Trì Châu, Ngài lên trên đảnh núi
Cửu Hoa ngồi thiền định trọn 75 năm.
Đến đời nhà Đường niên hiệu Khai Nguyên, năm thứ 16, tối 30 tháng 7,
Ngài chứng thành đạo quả. Lúc ấy Ngài đã được 99 tuổi, mà cũng còn ở trong động
núi Cửu Hoa.
Thuở đó, có một vị Cát Lão là ông
Mẫn Công, sẳn lòng từ thiện, hay làm những sự phước thiện, hay làm những sự phước
duyên. Trong nhà ông thường năm, mỗi khi Trai Tăng là 100 vị, mà ông chỉ thỉnh
99 vị, còn một vị để dành thỉnh Ngài cho đủ số.
Có một bửa kia, Ngài xin ông Mẫn Công một chỗ đất, ước vừa trãi đủ cái y
Ca Sa của Ngài mà thôi.
Khi ông bằng lòng cho, thì Ngài lấy y trải ra, trùm hết cả khoảng đất tại
cạnh núi.
Ông Mẫn Công thấy sự thần kỳ như vậy, biết là một vị Thánh Tăng, nên lại
càng bội phần hoan hỉ mà nguyện cúng hết đất ấy, còn người con ông thì xin xuất
gia theo Ngài.
Ít lâu ông cũng đi tu, trở lại đầu cơ với con, tức là Thầy Đạo Minh Hòa
Thượng.
Sau Ngài lại thiền định 20 năm nữa, đến đời nhà Đường, niên hiệu Chí Đức
thứ hai, bữa 30 tháng 7, Ngài nhập diệt.
Vì có sự tích của Ngài chuyển thế như vậy, nên người đời sau tạo tượng
mà thờ Ngài, bên tả có Thầy Đạo Minh, còn bên hữu có tượng ông Mẫn Công đứng hầu, và mỗi năm đến ngày 30
tháng 7 Annam, ai cũng làm lễ kỷ niệm Ngài là do tích đó.
(Sưu tầm & Biên
Tập)